Căn cứ theo Khoản 5, Điều 7, Thông tư 219/TT-BTC:
“5. Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại, giá tính thuế được xác định bằng không (0); trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại nhưng không thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại thì phải kê khai, tính nộp thuế như hàng hóa, dịch vụ dùng để tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho.”
>> Tham khảo: Tra cứu hóa đơn, Tra cứu hóa đơn điện tử.
Như vậy, nếu hàng hóa khuyến mại không thu tiền thì doanh nghiệp cần phải xuất hóa đơn cho hàng khuyến mại và số tiền trên hóa đơn ghi như sau:
Nếu hàng hóa khuyến mại thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại thì giá tính thuế xác định bằng 0.
Nếu hàng hóa khuyến mại không áp dụng theo quy định pháp luật về thương mại thì kê khai như trường hợp hàng hóa, sản phẩm phục vụ cho biếu tặng.
Điều 88 Luật thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về khuyến mại như sau: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.”
Ở góc độ ngôn ngữ, “mãi” là mua, “mại” là bán. Khuyến mại, khuyến mãi được hiểu là hành vi khuyến khích việc bán hàng, khuyến khích việc mua hàng.
>> Tham khảo: Hóa đơn tự in là gì? Doanh nghiệp được sử dụng đến khi nào?
Do việc mua bán được tiến hành đồng thời nên cả 2 thuật ngữ này đều có thể sử dụng được. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ sử dụng thuật ngữ “khuyến mại” với góc độ tiếp cận là hành vi của thương nhân nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển việc mua bán hàng hoá.
Như vậy, ta có thể hiểu thương mại là một trong những hình thức kích thích hành vi mua hàng của khách hàng mà các công ty, doanh nghiệp được phép triển khai. Việc thực hiện cần được tuân thủ theo đúng quy định, đúng yêu cầu của Luật thương mại hiện hành.
So với Luật thương mại năm 1997, Luật thương mại 2005 hiện hành khi định nghĩa về khuyến mại có bổ sung hai điểm về mục đích của khuyến mại và cách thức khuyến mại thông qua quan hệ dịch vụ.
Cụ thể là, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng mà còn nhằm xúc tiến việc mua hàng.
Mặc dù khuyến mại để bán hàng là hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu để cạnh tranh mở rộng thị phần nhưng đối với các doanh nghiệp thương mại, việc khuyến mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu cần thiết.
Đáp ứng yêu cầu thực tế này, pháp luật hiện hành quy định khuyến mại là hoạt động thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (chứ không phải chỉ là xúc tiến việc bán hàng như trước đây).
>> Tham khảo: Xác định thời điểm xuất hóa đơn đối với trường hợp giao hàng nhiều lần.
Ngoài ra, Theo đó, khi kê khai bổ sung thuế GTGT, các đơn vị kinh doanh phải tuân thủ mười bốn nguyên tắc sau:
Trường hợp kê khai bổ sung làm tăng số thuế GTGT phải nộp của kỳ kê khai bổ sung thì doanh nghiệp phải tiến hành nộp thêm số tiền còn thiếu đó cùng với số tiền chậm nộp vào Ngân sách Nhà nước và không cần điều chỉnh tờ khai 01/GTGT của tháng phát hiện sai sót;
Trường hợp kê khai bổ sung làm giảm số thuế phải nộp của kỳ kê khai bổ sung, số thuế này đã được hoàn thì doanh nghiệp cần kê khai đầy đủ vào các chỉ tiêu ở mục C trên mẫu 01/KHBS rồi lấy số tiền thuế đã được hoàn này nộp vào Ngân sách Nhà nước cùng số tiền chậm nộp;
Đơn vị kinh doanh khi khai bổ sung thuế GTGT trên phần mềm HTKK bắt buộc phải áp dụng theo mẫu số 01/KHBS;
Đơn vị kinh doanh tuyệt đối không được phép tự ý bù trừ sai sót của các tháng với nhau;
Các trường hợp sai sót không làm ảnh hưởng đến số tiền thuế thì làm tờ khai bổ sung điều chỉnh của tháng/quý có sai sót để gửi cho cơ quan thuế chủ quản kèm theo các công văn giải trình với cơ quan thuế về vấn đề này;
Các đơn vị kinh doanh chỉ tiến hành kê khai bổ sung cho tháng nào có sai sót và điều chỉnh nếu có;
Các tháng không có sai sót, điều chỉnh thì tuyệt đối không được kê khai bổ sung, điều chỉnh thuế GTGT.
>> Tham khảo: Hóa đơn điện tử, Báo giá hóa đơn điện tử.
Các đơn vị kinh doanh chỉ tiến hành kê khai bổ sung khi vào chỉ khi hết hạn nộp tờ khai thuế GTGT;
Các đơn vị kinh doanh chỉ thực hiện kê khai bổ sung trước khi có công bố quyết định thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế;
Sau khi kê khai bổ sung thuế GTGT, nếu số thuế được khấu trừ của kỳ khai bổ sung bị giảm đi, người kê khai cần điền số tiền đó vào chỉ tiêu số 37 trên tờ khai 01/GTGT của tháng/quý phát hiện sai sót cần kê khai bổ sung;
Sau khi kê khai bổ sung thuế GTGT, nếu số thuế được khấu trừ của kỳ khai bổ sung tăng lên, người kê khai cần điền số tiền đó vào chỉ tiêu số 48 trên tờ khai 01/GTGT của tháng/quý phát hiện sai sót cần kê khai bổ sung;
Việc kê khai bổ sung thuế GTGT được phép thực hiện bất kể thời điểm nào khi phát hiện sai sót, doanh nghiệp hoàn toàn được kê khai bổ sung nhiều lần;
Khi tiến hành kê khai bổ sung lần thứ nhất, người khai thuế phải đối chiếu số liệu tờ khai lần đầu, nếu khai bổ sung lần thứ hai thì người khai thuế phải đối chiếu số liệu tờ khai bổ sung lần thứ nhất.
Trường hợp kê khai bổ sung là giảm số thuế GTGT phải nộp của kỳ bổ sung thì doanh nghiệp được bù trừ số tiền thuế đã nộp thừa vào nghĩa vụ thuế của kỳ tiếp sau đó và không phải điều chỉnh tờ khai mẫu số 01/GTGT của tháng phát hiện sai sót;
>> Tham khảo: Hướng dẫn làm thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân tự quyết toán thuế.
Như vậy, bài biết trên đây đã cập nhật tới bạn các nguyên tắc khai thuế GTGT và nguyên tắc kê khai bổ sung thuế GTGT mà mọi đơn vị kinh doanh đều cần biết và tuân thủ.
Kết luận
Để nhận tư vấn về hóa đơn điện tử và phần mềm hóa đơn điện tử E-invoice, quý doanh nghiệp vui lòng liên hệ theo thông tin dưới đây:
CÔNG TY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THÁI SƠN
- Địa chỉ: Số 15 Đặng Thùy Trâm – Cầu Giấy – Hà Nội
- Tổng đài HTKH: 1900 4767 – 1900 4768
- Tel : 024.37545222
- Fax: 024.37545223
- Website: https://einvoice.vn/
0 Comments:
Đăng nhận xét